Nhân là năng lực chánh phát sanh ra sự vật; Duyên là năng lực phụ giúp cho năng lực chánh phát sanh. Duyên sanh là chỉ cho sự vật được sanh ra khi có đủ duyên và duyên khởi là chỉ cho sự quan hệ làm khởi sanh ra sự vật.
1) Các
loại: Có mười hai loại nhân duyên: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử.
1) Vô
minh: Chân
Như và Vô Minh
là một thể
như là hai mặt
của một đồng tiền,
bị mê lầm che lấp Chân như thì là Vô Minh. Vô minh là nguồn
gốc gây nên mọi tội lỗi,
làm cho chúng ta
bị trôi lăn trong khổ đau, nó là căn bản của 11 món sau đây:
2) Hành: Nghĩa là hành động, vì có Vô minh nên mới gây
ra sự chuyển dịch thành hành động và những hành động vô minh gây ra nhiều tội lỗi, từ đó trói buộc chúng sinh vào luân hồi. Hai món Vô minh và Hành nếu
đem phân phối vào nhân quả
trong 3 đời thì chúng thuộc
về nghiệp nhân ở quá
khứ sẽ có kết quả ở hiện tại.
3) Thức: Vì sự mê mờ và hành động nên tạo ra Nghiệp thức phân biệt, hiểu biết sai lầm. Vì sự hiểu biết sai lầm nầy, nên chấp có Năng là
mình, có Sở là ngoại vật,
từ đó bảo thủ
thân mạng, có
những cảm xúc
vui buồn,
thương ghét...
Thức là một trong ba phần tử "thọ, noãn, thức" để thọ thai và
tạo thành thân
mạng.
4) Danh
sắc: Danh là danh từ trừu tượng như Thụ, Tưởng, Hành, Thức uẩn, không có hình ảnh, chỉ là trạng thái tùy theo cảnh giới mà hiển hiện. Sắc là hình tướng vật thể vô tri có trạng thái tự tiêu
hoại do sức lạnh, nóng của thời
tiết. Đây chủ yếu nói về Sắc uẩn là do sự phối hợp của bốn Đại : Đất, Nước, Lửa, Gió tức chỉ cho tổng báo thân của
loài hữu tình
khi còn ở trong thai trạng và dần
dần sinh
trưởng. Có Nghiệp
thức là có sự luân
chuyển, nên khi tâm
thức chuyển sự sống qua kiếp khác, nhờ có tâm thức (danh) và
tinh huyết của cha mẹ
(sắc) hòa hợp
nương tựa nhau, sự sống nảy
nở và tồn tại.
5) Lục
nhập: Khi sự sống được hình thành và tăng trưởng (kết thai), thì 6 quan năng
được hình thành (bào thai),
đó là Sáu căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý có đối tượng Sáu trần là: Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Sáu
trần tiếp xúc
với sáu căn nên gọi là Lục
nhập, khi bào
thai còn trong bụng mẹ thai nhi tiếp xúc gián tiếp qua người mẹ.
6) Xúc: Xúc chạm đối đãi; nghĩa là sau khi thai nhi ra đời có sự tiếp xúc giữa quan
năng với ngoại cảnh,
nhưng vì còn nhỏ chừng 1,2 tuổi nên trẻ con chưa biết nhận xét vui, buồn, tốt, xấu ... vì chưa có
đủ lý trí để phân biệt, cảm nhận
một cách rõ ràng,
tinh tế nên
trong giai đoạn nầy gọi là xúc.
7) Thọ: Cảm giác, lãnh thọ. Đây là giai đoạn đứa bé chừng 3 đến 13
tuổi, sự tiếp thọ với ngoại
cảnh đã tiến
bộ, đứa bé biết thương ghét, giận hờn, buồn, vui, đam mê ... Năm món:
Thức, Danh sắc,
Lục nhập,
Xúc, Thọ đem phân phối vào nhân
quả ba đời thì chúng thuộc quả hiện tại, do nghiệp nhân quá khứ là Vô minh và Hành gây ra.
8) Ái: Tham ái . Do biết buồn vui, thương ghét cho nên sinh
lòng tham ái vào khoảng tuổi từ
14 đến 19, đây là tuổi dậy thì. Yêu cái gì mình thích và ghét cái gì mình không
ưa.
9) Thủ: Giành giữ lấy. Từ 20 tuổi trở đi, thân thể phát triển
cường tráng,
sự tham ái
càng mạnh cho nên yêu thích cái gì thì muốn giữ lấy cái đó. Chính vì sự giành
giữ để thỏa mãn
nên có việc lành
việc dữ xảy ra tạo nên thiện và ác nghiệp phải chịu quả báo đời sau.
10) Hữu: Do Ái và Thủ làm nghiệp nhân nên phải có (hữu) thân sau để
chịu quả báo lành dữ.
Ba món: Ái, Thủ và Hữu đem phân phối trong nhân quả ba đời,
chúng thuộc về nghiệp
nhân hiện tại.
11) Sanh: Sanh mạng. Chỉ chung cho tổng báo thân của
loài hữu tình
(tâm và sắc), trong ấy gồm cả thể
chất (vật lý)
và tinh thần (tâm lý) , sống
trong một thời gian
do Hành Nghiệp
quyết định.
12) Lão
tử: Dòng sinh mạng con người đến Già rồi chết. Hai món : Sinh, Lão tử đem phân
phối nhân quả
trong ba đời,
chúng thuộc về quả báo
ở vị lai.
2) Phân loại và công năng :
A) Phân loại: Có ba bộ:
1) Hoặc: Là chỉ cho trạng thái mê mờ của tâm lý nên nhận định rất sai lầm. Vô minh, Ái, Thủ
thuộc loại nầy.
2) Nghiệp: Chỉ cho những hành động sai lầm phát ra ở
thân, tâm; chúng gồm có:
Hành và Hữu.
3) Khổ: Quả báo đau khổ do nghiệp nhân mê mờ (vô minh, ái, thủ) và hành động sai lầm (hành, hữu)
gây ra. Thức, danh, sắc, lục
nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử chịu quả báo do những nghiệp nhân trên gây ra.
B) Công
năng:
- Muốn chấm
dứt luân hồi,
giải thoát
khổ đau thì chúng ta
phải trừ những nghiệp nhân
hữu lậu: Vô minh, Ái, Thủ,
Hành, Hữu. Như vậy sẽ không có quả
báo trong hiện
tại và tương lai: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử.
- Sự chấm
dứt những nghiệp
nhân hữu lậu,
chính là không để cho vọng
tâm làm mê mờ, như thế trí tuệ được sáng suốt.
- Những bậc chuyên quan sát, nghiên cứu tu tập theo Mười hai nhân duyên, diệt trừ các nghiệp hữu lậu, thoát khỏi luân hồi chứng đắc quả vị Bích Chi Phật.
III.- Kết
luận: Hiểu
rõ Mười hai
nhân duyên, chúng
ta có thể hiểu vì sao con người chịu những khổ đau, tại sao phải bị luân hồi trong sáu
nẻo. Chúng ta
phải nghiên cứu,
quan sát chuyên tâm tu học đồng thời khuyến hóa những
người khác, để cùng nhau tu
học, cùng nhau tinh
tấn, cùng nhau giải
thoát mọi khổ đau, ràng buộc trong vòng sinh tử.
Nhận xét
Đăng nhận xét